Lịch sử hình thành Luật_Công_bình

Hạn chế của Thông luật

Giai đoạn thế kỷ XVI và XVII ở Anh, lúc này tình hình kinh tế xã hội phát triển, tự do kinh tế, tự do mậu dịch được phát triển, nhiều tranh chấp mới phát sinh giữa các thương nhân nhưng các Tòa án hoàng gia không thể giải quyết thấu đáo các tranh chấp này, mặt khác các quy định của thông luật không phù hợp để điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh dẫn đến thông luật rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Thông luật đã phát huy tác dụng, là một luật rất mềm dẻo vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề, vụ việc đưa đến tòa dựa trên các nguyên tắc chung đã được thỏa thuận giữa các thẩm phán.

Bài chi tiết: Tiền lệ pháp

Đến cuối thế kỉ XIV, học thuyết tiền lệ pháp được tuân thủ và áp dụng trong các Tòa án Hoàng gia của Anh. Học thuyết tiền lệ pháp là học thuyết mà theo đó các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc tại thời điểm hiện tại, phải căn cứ những phán quyết, những quy định trong quá khứ, trong đó có án lệ.

Trong hệ thống pháp luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ XIII có tên Latinh là "stare decisis" (Tiền lệ phải được tôn trọng) có nghĩa là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,các Tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ.

Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ pháp làm cho Thông luật (Common Law) trở lên cứng nhắc, bởi vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển các quy phạm pháp luật giải quyết những vấn đề đem đến tòa nữa. Khi tình tiết vụ việc khác đi thì các thẩm phán không thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng họ cũng không có khả năng sáng tạo ra tiền lệ pháp mới vì bị bó buộc trong khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp.

Hệ thống Trát

Bài chi tiết: Trát

Về mặt thủ tục, bản thân Thông luật được xây dựng trên thủ tục tố tụng khá phức tạp, đặc biệt trong mối quan hệ với hệ thống trát. Trát được sử dụng như một loại giấy thông hành do vua cấp để bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa án Hoàng gia, tiếp cận với công lý nhằm giải quyết những oan khuất của mình.

Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng, vì vậy, tùy thuộc vào bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần giành được loại trát phù hợp mới hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lý và giải quyết. Bước sang thế kỉ XV, thủ tục tố tụng ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát, do đó, thủ tục tố tụng thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện.

Nếu đơn khiếu kiện không rơi vào một trong những vụ việc đã có trát lưu hành, bên nguyên sẽ mất quyền khởi kiện, hoặc nếu bên nguyên giành được trát nhưng trát đó không phù hợp với bản chất của vụ kiện, bên nguyên cũng bị tòa bác đơn.

Hình thành

Do sự cứng nhắc của Thông luật, đặc biệt trong thủ tục xét xử, bên nguyên đơn trong vụ việc tranh chấp thường tiếp tục khiếu kiện lên vua nhằm tìm khiến sự trợ giúp đặc biệt mang tính chất phúc thẩm. Nhiều người khởi kiện không thỏa mãn với phán quyết của các Tòa án hoàng gia mà làm đơn thỉnh cầu lên nhà vua. Họ coi nhà vua là người có quyền lực tối cao và là biểu tượng của Công lý, lẽ công bằng. Lẽ tất nhiên, nhà vua không thể tự mình giải quyết, phân xử hết tất cả những thỉnh cầu của thần dân ông ta mà những thỉnh cầu này gửi lên càng ngày càng nhiều, tranh chấp càng ngày càng đa dạng, phức tạp, chưa kể là có những đơn thỉnh cầu, những tranh chấp vặt vãnh.

Vua thường thông qua viên Đại Chưởng ấn hay còn gọi là Đại Pháp quan hoặc Ngài Đổng lý Văn phòng (Lord Chancellor) là một công chức của Tòa án đồng thời hầu cận của mình đóng vai trò như một pháp quan để giải quyết những đơn kiện loại này. Dân dần nhà vua giao cho Đại chưởng ấn giải quyết luôn những vụ việc và giao quyền cho ông ta. Điều này dẫn đến hệ lụy là Văn phòng đại pháp quan đã dần phát triển thành Tòa đại pháp.[3][4]

Trong quá trình giải quyết, Đại chưởng ấn đưa ra những giải pháp pháp lý rất phù hợp, hiệu quả vì thường viện dẫn vào "công lý, lẽ phải và tình yêu thương của Chúa trời" dẫn đến số lượng đơn thỉnh cầu tăng lên, khối lượng công việc ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một nhân sự và hệ thống thể chế, thiết chế tương đương vì vậy vua ra quyết định thành lập tòa án công bằng.

Đầu thế kỷ 16, các quyết định của Tòa công bằng hình thành một hệ thống các quy định pháp lý và Trong quá trình sử dụng công lý để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại pháp quan đã phát triển thành tập hợp những quy phạm đặc biệt, được nhắc đến dưới danh nghĩa "equity" hay Luật Công bình và hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng. Học thuyết về Luật công bình (Equity law) mang nhiều yếu tố của Luật La Mã vì các Đại Chưởng ấn thường là các mục sư bị ảnh hưởng của Luật Giáo hội (cannon law)- một loại luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã.[3]